Nước thải đô thị là gì? Các công bố khoa học về Nước thải đô thị

Nước thải đô thị là nước bẩn sinh hoạt và công nghiệp được xả ra từ các hoạt động trong thành phố hay khu đô thị. Nước thải đô thị bao gồm nước từ nhà dân, cơ s...

Nước thải đô thị là nước bẩn sinh hoạt và công nghiệp được xả ra từ các hoạt động trong thành phố hay khu đô thị. Nước thải đô thị bao gồm nước từ nhà dân, cơ sở hạ tầng đô thị như công trình xây dựng, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn, bệnh viện, trường học và các hoạt động công nghiệp như nhà máy, nhà xưởng.
Nước thải đô thị là loại nước bẩn được sinh ra từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của con người trong khu đô thị. Đây là nước bẩn chứa nhiều chất độc hại, vi khuẩn và các tạp chất khác. Nước thải đô thị bao gồm:

1. Nước sinh hoạt: Đây là nước bẩn từ việc sử dụng hàng ngày như nước rửa tay, nước tắm, nước rửa đồ, nước mắm, nước toilet và nước xả hố ga. Nước sinh hoạt thường chứa các chất hữu cơ, động vật chết, chất hóa học trong hóa mỹ phẩm và các chất phụ gia sinh hoạt.

2. Nước công nghiệp: Nước thải đô thị cũng bao gồm nước bẩn phát sinh từ các hoạt động công nghiệp như nhà máy chế biến thực phẩm, nhà máy sản xuất đồ gia dụng, nhà máy sản xuất bia, xưởng may, xưởng ô tô và các ngành công nghiệp khác. Nước thải công nghiệp thường chứa các chất hóa học, kim loại nặng, dầu mỡ, bụi và hạt bẩn.

3. Nước mưa: Nước mưa trong khu đô thị cũng được xem là một loại nước thải đô thị. Nước mưa khi chảy qua các bề mặt lớp đất, các mái nhà, đường phố, và các công trình xây dựng, nó thu thập các chất ô nhiễm từ môi trường và trở thành nước thải nếu không được xử lý.

Xử lý nước thải đô thị là quá trình loại bỏ hoặc giảm thiểu sự ô nhiễm trong nước thải trước khi xả thải vào môi trường, nhằm giảm tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. Một số phương pháp xử lý nước thải đô thị bao gồm xử lý cơ học, xử lý sinh học và xử lý hóa học.
Xử lý nước thải đô thị là một quá trình phức tạp và đòi hỏi nhiều công nghệ và phương pháp khác nhau để loại bỏ hoặc giảm thiểu chất ô nhiễm trong nước thải trước khi xả vào môi trường. Dưới đây là một số phương pháp chính được sử dụng để xử lý nước thải đô thị:

1. Xử lý cơ học: Phương pháp này sử dụng các quá trình vật lý để loại bỏ hoặc giảm kích thước các chất rắn lơ lửng trong nước thải. Các bước xử lý cơ học có thể bao gồm qua cấp, sàng lọc, lắng giữ, và kết tủa. Trong quá trình qua cấp, nước thải được thông qua các bể lọc vật liệu để loại bỏ các chất rắn. Trong quá trình sàng lọc, các bể lọc cát hoặc các hệ thống màng lọc được sử dụng để lọc ra các hạt nhỏ và tạp chất. Các quá trình lắng giữ sử dụng sự phân tách trọng lực để giữ nước yên trong một khoảng thời gian nhất định, để các chất rắn lơ lửng kết tụ và lắng xuống dưới dạng bùn. Kết tủa là một quá trình trong đó các chất hòa tan trong nước thải được trung hòa hoặc phản ứng với các chất hóa học để hình thành kết tủa, sau đó được loại bỏ.

2. Xử lý sinh học: Phương pháp xử lý sinh học sử dụng vi sinh vật để phân hủy và loại bỏ các chất hữu cơ trong nước thải. Quá trình xử lý sinh học thông thường được thực hiện trong các hệ thống xử lý bùn hoặc hệ thống xử lý biológic. Hệ thống xử lý bùn sử dụng vi sinh vật để tiêu hủy các chất hữu cơ trong quá trình hủy sinh. Các hệ thống xử lý biológic sử dụng các biển vi sinh hay các bể biológic để loại bỏ các chất hữu cơ thông qua quá trình hiếu khí và quá trình kết hợp.

3. Xử lý hóa học: Phương pháp xử lý hóa học sử dụng các chất hoá học để khử trùng, tẩy trắng và loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ trong nước thải. Các chất hoá học phổ biến được sử dụng trong quá trình này bao gồm clo, ozon, khử nguyên tử, và các chất flo. Quá trình xử lý hóa học có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với các phương pháp khác để đạt được hiệu quả tốt hơn.

4. Xử lý nước mưa: Để xử lý nước mưa trong khu đô thị, các công trình hạ tầng như hố ga, giếng thoát nước, công viên mưa, hệ thống thoát nước tách biệt và hệ thống xử lý mưa có thể được sử dụng. Các công trình này nhằm mục đích thu nhận, lọc và giảm thiểu lưu lượng và chất lượng nước mưa trước khi tiếp tục xả ra môi trường tự nhiên.

Tổng quát, xử lý nước thải đô thị là quá trình loại bỏ hoặc giảm thiểu chất ô nhiễm trong nước thải để bảo vệ môi trường nước và sức khỏe con người. Việc xử lý hiệu quả nước thải đô thị là một yêu cầu pháp lý và môi trường quan trọng trong các khu đô thị hiện đại.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nước thải đô thị":

TỐI ƯU HÓA THIẾT KẾ VÀ VẬN HÀNH TRẠM XỬ LÝ NƯỚC THẢI
Câu hỏi đặt ra với trạm xử lý nước thải đô thị là cần bao nhiêu bể phản ứng sinh học để hiệu suất xử lý và hiệu quả kinh tế cao nhất Đã có nhiều công trình nghiên cứu bằng thực nghiệm chưa có câu trả lời chính xác cho vấn đề này. Để giải quyết vấn đề này thì cần mô phỏng quy trình xử lý của trạm xử lý nước thải bằng toán học trên cơ sở đó sử dụng lý thuyết tối ưu để tìm các thông số thiết kế xây dựng và vận hành thích hợp nhất. Kết quả nghiên cứu cho một trạm trạm xử lý nước thải chỉ ra rằng chỉ cần sử dụng 2 bể (hiếu khí đặt trước và kỵ khí) sẽ cho hiệu quả xử lý và hiệu quả kinh tế cao nhất. Chạy thử với dữ liệu đầu vào của trạm xử lý nước thải Benchmark [3] cho thấy sau khi tối ưu hóa, hiệu quả kinh tế đạt từ 40 đến 50% so với điều kiện vận hành thực tế của trạm.
#tối ưu hóa #trạm xử lý nước thải #xử lý nước thải đô thị #thiết kế #vận hành
Hiện trạng xử lý bùn tại các nhà máy xử lý nước thải đô thị: Nghiên cứu điển hình tại thành phố Đà Nẵng
Nghiên cứu trình bày kết quả đánh giá hiện trạng xử lý bùn tại hai trạm xử lý nước thải (XLNT) điển hình ở Thành phố Đà Nẵng là trạm XLNT Hòa Xuân và trạm XLNT Sơn Trà. Lượng nước thải xử lý vào các tháng mùa khô của trạm XLNT Hòa Xuân đạt 34% so với công suất, trong khi trạm XLNT Sơn Trà đã vượt công suất thiết kế đến năm 2025 khoảng 13%. Tại thời điểm khảo sát, lượng bùn sau khử nước bằng thiết bị ép phát sinh trung bình khoảng 8 tấn/ngày tại trạm XLNT Hòa Xuân và 20 tấn/ngày tại trạm XLNT Sơn Trà. Bùn sau ép của hai trạm XLNT có độ ẩm dao động từ 81-86% và pH dao động ở mức 6,7-7,3. Bùn trạm XLNT Sơn Trà có độ tro thấp hơn 1,5-1,7 lần trong khi tổng nitơ và hàm lượng phốt pho hữu hiệu (P2O5) cao hơn lần lượt là 2,5 lần và 1,4 lần so với bùn trạm XLNT Hòa Xuân. Bùn từ các trạm XLNT được vận chuyển chôn lấp tại Khu xử lý Khánh Sơn với chi phí cao và gây lãng phí tài nguyên từ bùn.
#Trạm xử lý nước thải #bùn thải #khử nước #chôn lấp #chi phí xử lý
Bùn thải đô thị tại thành phố Đà nẵng: Hiện trạng và khả năng xử lý bằng phương pháp phân hủy kỵ khí
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về hiện trạng quản lý bùn thải đô thị và các thông số cơ bản của quá trình phân hủy kỵ khí làm cơ sở cho việc lựa chọn công nghệ xử lý bùn thải từ các trạm xử lý nước thải (XLNT) đô thị tiếp cận theo hướng giảm phát thải khí nhà kính tại Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng lớn bùn thải từ hệ thống thoát nước phát sinh chứa lượng lớn chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học, chất dinh dưỡng nhưng chưa được xử lý phù hợp. Thực nghiệm áp dụng phương pháp phân hủy kỵ khí (PHKH) trong xử lý bùn cặn từ trạm XLNT đô thị cho kết quả: (1) Bùn cặn từ trạm XLNT có thể được xử lý bằng phương pháp PHKH cho khả năng thu hồi biogas cao; (2) Chế độ vận hành liên lục tối ưu ở tải trọng 0,84gCHC/lít.ngày, sản lượng biogas 0,27l/gCHC; (3) Áp dụng phương pháp PHKH trong XL bùn cặn từ các trạm XLNT là cần thiết, góp phần giảm phát thải khí nhà kính cho thành phố trong tương lai.
#bùn thải #phân hủy kỵ khí #xử lý bùn cặn #xử lý nước thải #khí sinh học
Thử nghiệm quá trình phân hủy bùn thải từ trạm xử lý nước thải đô thị trong điều kiện hiếu khí có phối trộn giá thể
Bài báo trình bày kết quả đánh giá quá trình phân hủy bùn thải từ trạm xử lý nước thải đô thị trong điều kiện hiếu khí có phối trộn giá thể là vụn gỗ tuyết tùng. Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm và pH được theo dõi trong suốt thời gian thí nghiệm để kiểm tra sự ảnh hưởng đến hiệu quả quá trình. Kết quả đánh giá khả năng phân hủy thông qua tỷ lệ giảm khối lượng chất thải sau 4 tuần trong điều kiện có phối trộn giá thể đạt trên 20%, cao hơn khoảng 7% so với không có phối trộn cho thấy sự khác biệt khi kết hợp giá thể trong thí nghiệm. Tỷ lệ này tăng thêm khoảng 40% khi được ổn định nhiệt và tăng cường quá trình bay hơi nước. Quan sát thành phẩm sau quá trình phân hủy có sự thay đổi rõ rệt về màu sắc, mùi và kích thước hạt. Chỉ số đánh giá khả năng nảy mầm của hạt (GI) trên dung dịch chiết từ thành phẩm có giá trị từ 160-248 nên có thể sử dụng cho cây trồng tùy theo nhu cầu sinh trưởng.
#Bùn thải #quá trình hiếu khí #giá thể tuyết tùng #tỷ lệ phân hủy chất thải #GI
Ozon hóa trong điều trị nâng cao nước thải đô thị thứ cấp để loại bỏ các vi chất ô nhiễm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 27 - Trang 45460-45475 - 2020
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá thực nghiệm quy trình ozon hóa như một bước điều trị bổ sung để loại bỏ các chất ô nhiễm mới nổi từ nước thải thứ cấp của hai nhà máy xử lý nước thải (WWTP), một nhà máy nhận nước thải chủ yếu từ sinh hoạt (WWTP-A), và nhà máy còn lại là nước thải sinh hoạt cùng với dòng nước thải từ nhà máy thuộc da đã được xử lý trước (WWTP-B). Các thí nghiệm được thực hiện ở hai giá trị pH khác nhau (tức là, pH ban đầu và pH điều chỉnh 10) và tại sáu liều ozone khác nhau từ 0.2 đến 1.5 mg O3/mg DOC. Tổng cộng 20 hợp chất, bao gồm 12 vi chất ô nhiễm (MPs) và 8 chất chuyển hóa, đã được chọn làm các chất phân tích mục tiêu để đánh giá hiệu suất của quy trình ozon hóa. Khi các MPs và chất chuyển hóa được xem xét riêng lẻ, mức độ loại bỏ tối đa cho mỗi hợp chất được đạt được tại các liều ozone khác nhau; do đó, các liều ozone tối ưu đã được xác định dựa trên sự giảm tổng lượng MP. Ozon hóa ở pH ban đầu với liều ozone trong khoảng 0.4–0.6 và 0.8–1.0 mg O3/mg DOC được chọn là điều kiện vận hành tối ưu cho WWTP-A và WWTP-B, tương ứng, cả hai đều đạt được hiệu suất loại bỏ tổng thể trung bình là 55%. Điều trị bằng ozone chỉ cho hiệu quả loại bỏ kém đối với o-desmethyl naproxen (15%), được phát hiện là phần đóng góp chính, chiếm khoảng 30% tổng nồng độ MP trong nước thải thứ cấp. Cách tiếp cận có hệ thống được sử dụng trong nghiên cứu này có thể được áp dụng như một hướng dẫn cho các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt và đô thị khác, vốn được cho là có thành phần rất biến động về các MPs và chất chuyển hóa.
#ozonation; wastewater treatment; micropollutants; secondary effluents; ozone doses
Giải pháp quản lý và nâng cao chất lượng nước thải
Xã hội ngày càng phát triển thì lượng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp cũng tăng lên theo cấp số nhân. Tuy nhiên, các hệ thống xử lý nước thải tập trung không đủ để giải quyết (tính đến năm 2018, tỷ lệ nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp ở các khu công nghiệp và ở các cụm công nghiệp được thu gom và xử lý tại Việt Nam ở mức thấp theo tỷ lệ tương ứng là 13%, 88% và 15.8%) làm suy giảm về chất lượng và số lượng nguồn nước mặt, ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nước ngầm, hệ sinh thái và đe dọa đến an ninh nguồn nước [1]. Điều này đã và đang ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân. Để hạn chế tình trạng này, tái sử dụng nước thải đang được xem là một giải pháp hiệu quả và phù hợp với thành phố. Thực trạng trên đòi hỏi Nhà nước cần có quy định, thông tư hướng dẫn việc tái sử dụng nước thải, nâng cao quy định, quy chuẩn cho phù hợp với tình hình hiện tại, từng bước giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường nước.
#Tái sử dụng nước thải #rủi ro #quy chuẩn xả thải #nước thải đô thị #nguyên tắc phát triển bền vững
Các thông số của quá trình lọc sinh học xử lý nước thải đô thị từ hệ thống thoát nước chung: kết quả thực nghiệm tại thành phố Đà Nẵng
Lọc sinh học là một trong những công nghệ xử lý nước thải đã và đang được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới nhờ các ưu điểm về chi phí, vận hành hay hiệu suất xử lý. Tuy nhiên tại Việt Nam, với nước thải đô thị từ hệ thống thoát nước chung có nồng độ các chất ô nhiễm thấp và thay đổi theo mùa, các nhà máy xử lý nước thải chỉ sử dụng công nghệ bùn hoạt tính, mà chưa áp dụng công nghệ lọc sinh học cho quá trình xử lý nước thải. Mô hình lọc sinh học được vận hành theo các thông số chiều cao vật liệu lọc và tải lượng chất hữu cơ khác nhau, nhằm đánh giá hiệu suất xử lý cùng với khả năng áp dụng của công nghệ cho quá trình xử lý nước thải đô thị. Các kết quả nghiên cứu cho thấy với tải lượng chất hữu cơ dưới 1 kg BOD/m3.ngđ. và chiều cao vật liệu lọc trên 2m, đã đảm bảo được hiệu suất khử BOD trên 60% và chất lượng nước sau xử lý đạt cột A của QCVN40:2011/BTNMT
#Đà Nẵng #lọc sinh học #nước thải đô thị #thoát nước chung #xử lý nước thải
TỐI ƯU HÓA TRÍCH LY PHOTPHORUS TỪ BÙN THẢI NHÀ MÁY XỬ LÝ NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ BÌNH HƯNG: TỐI ƯU HÓA TRÍCH LY PHOSPHORUS TỪ BÙN THẢI NHÀ MÁY XỬ LÝ NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ BÌNH HƯNG
Trích ly photphorus (P) trong bùn thải đã tách nước từ hệ thống xử lý nước thải đô thị là giai đoạn quan trọng nhằm chuyển hóa hợp chất P trong thể rắn thành dạng hòa tan để có thể phân tách và thu hồi dưới dạng sản phẩm sạch. Ngoài ra, tối ưu hóa các điều kiện trích ly rất cần thiết để giảm thiểu đến mức thấp nhất mức độ sử dụng hóa chất và tài nguyên nước trong phát triển quy trình thu hồi P. Nghiên cứu này kết hợp quá trình thí nghiệm thực nghiệm và mô phỏng bằng công cụ thủy hóa Aqion-PRO để xác định các điều kiện trích ly phù hợp nhất nhằm tối ưu trích ly P. Tác nhân trích ly, tỉ lệ pha lỏng-rắn, nồng độ và thời gian tiếp xúc phản ứng được xác định là các điều kiện cần tối ưu hóa. Tỉ lệ pha lỏng- rắn và nồng độ chất trích ly có mối tương quan với nhau đến khả năng trích ly giải phóng P trong bùn. Tại H2SO4 1.1M, tỉ lệ pha lỏng-rắn 5 và thời gian trích trích ly 60 phút được xác định mang lại hiệu quả trích ly P tối ưu nhất, khoảng 85 ± 3%.
#Sewage sludge; Simulation; Domestic wastewater; Phosphorus recovery; Leaching.
Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu quả xử lý nước thải của việc ứng dụng bùn hạt hiếu khí trên mô hình công nghệ SBR
TẠP CHÍ VẬT LIỆU & XÂY DỰNG - Tập 11 Số 05 - Trang Trang 121 - Trang 124 - 2021
Nuôi cấy và sử dụng bùn hạt hiếu khí trên mô hình công nghệ bể phản ứng theo mẻ SBR trên thế giới bắt đầu từ những năm 1970 và được nghiên cứu sâu trong những năm sau đó với các chất nền dùng để nuôi cấy khác nhau như: glucose, acetate, ethanol, mật mía, đường, tinh bột, phenol, axit phtalic, chloroanilines, rượu tert-butyl, và nước thải tổng hợp khác. Hiệu quả xử lý nước thải (XLNT) của Bùn hạt hiếu khí phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Tải trọng chất hữu cơ, thời gian lắng, nhiệt độ, độ pH, lưu lượng sục khí... Trong bài báo này, trình bày sự ảnh hưởng của các yếu tố trên đối với hiệu quả XLNT của ứng dụng Bùn hạt hiếu khí trên mô hình công nghệ SBR quy mô phòng thí nghiệm. Nghiên cứu trên mô hình bể SBR làm bằng nhựa acrylic trong suốt có đường kính ống 0,110 (m), chiều cao 1 (m), chiều cao chứa nước là 0,8 (m), thể tích làm việc của bể là 2,5 (lít). Bể SBR cùng làm việc với 6 chu kỳ trong 1 ngày, thời gian 1 chu kỳ là 4 giờ, trong 1 chu kỳ gồm 4 pha: pha nạp nước 1-2 (phút), pha sục khí 180 (phút), pha nghỉ 20 - 30 (phút), pha xả 10 - 15 (phút). Nước đầu vào cho mô hình là nước thải nhân tạo có tải trọng hữu cơ ở các mức khác nhau. Kết quả thí nghiệm đạt được như sau: loại bỏ trên 92 % COD, 90 % NH4+ -N đối với nước thải có OLR từ 1,0 - 1,2 kgCOD/m3.ngày; trên 90 % COD, 89 % NH4+ -N đối với nước thải có OLR từ 2,7 - 3,0 kgCOD/ m3.ngày; COD từ 60 - 92 %, NH4+ -N từ 58 - 90 %, T-N từ 15 - 48 %, T-P từ 20 - 21 % nếu lưu lượng sục khí đạt 1,5 - 4,5 (lít/phút); nhiệt độ môi trường từ 25 - 350C hầu như không ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý của bùn hạt hiếu khí; pH càng thấp thì khả năng xử lý của bùn hạt càng kém và thiếu ổn định. Tổng thời gian thí nghiệm là 55 ngày.
#Bể xử lý theo mẻ SBR #Bùn hạt hiếu khí #Xử lý nước thải đô thị
Điều Trị Thụ Động Nước Thải Mỏ Circumneutral Từ Đường Hầm Mỏ St. Louis, Rico CO: Phần 2—Nghiên Cứu Thí Điểm Dòng Sinh Học Theo Đứng Dịch bởi AI
International journal of mine water - Tập 41 - Trang 871-885 - 2022
Đây là bài thứ hai trong ba bài báo liên quan đến nước thải mỏ mang kim loại từ khu vực mỏ Rico-Argentine không hoạt động, nằm ở độ cao khoảng 2740 m (9000 feet) trong dãy núi San Juan tại tây nam Colorado. Bài báo này đánh giá hai năm điều trị nước thải mỏ bằng hệ thống thụ động, bao gồm một tế bào sinh học kỹ thuật chảy thẳng đứng. Đường hầm St. Louis (SLT) bị sập xả nước mỏ có tính chất circumneutral từ nhiều nguồn khác nhau, chứa nồng độ cao các kim loại Cd, Cu, Fe, Mn, Zn. Một hệ thống điều trị thụ động theo dòng chảy trọng lực quy mô thí nghiệm với công suất 114 L/phút (30 gpm) đã được lắp đặt, bao gồm một bể lắng (sử dụng việc thêm chất đông tụ để cải thiện hiệu suất lắng của các chất rắn lơ lửng), một bể phản ứng sinh học giảm sulfate kỵ khí, và một thác khí để xử lý nước thải. Hệ thống điều trị đã đạt được các mục tiêu điều trị cho Cd, Cu, Fe, và Pb nhìn chung. Nồng độ ZnS ở pha nano trong nước thải của hệ thống đã làm giảm tần suất đạt được các mục tiêu điều trị tổng Zn của dự án. Mức giảm Mn cao bất ngờ được ghi nhận ở cả bể phản ứng sinh học kỵ khí và thác khí. Các biến động theo mùa lớn về nồng độ kim loại trong nước vào và pH đã đặt ra thách thức lớn nhất trong việc quản lý hiệu suất của hệ thống.
#nước thải mỏ #điều trị thụ động #kim loại #Rico-Argentine #St. Louis Tunnel #bioreactor kỵ khí #hiệu suất hệ thống
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2